Monday, March 8, 2010

CSVN ĐÃ BỎ LỠ BAO NHIÊU CƠ HỘI ĐỂ LÀM CHO ĐẤT NƯỚC VIỆTNAM ĐỘC LẬP VÀ PHÚ CƯỜNG

CSVN ĐÃ BỎ LỠ BAO NHIÊU CƠ HỘI ĐỂ LÀM CHO ĐẤT NƯỚC VIỆTNAM ĐỘC LẬP VÀ PHÚ CƯỜNG

Chu Chi Nam

Người Việt chúng ta có câu: « Một người thầy thuốc dở và lầm, thì giết một người. Một người thầy giáo dở và lầm, thì giết một thế hệ. Một người lãnh đạo dở và lầm, thì giết không biết bao thế hệ.»
Thật vậy, giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam, bắt đầu từ Hồ chí Minh cho tới con cháu ngày hôm nay, như Nông đức Mạnh, vừa dở và lại vừa lầm, nên đã dẫn dân nước tới chỗ lầm than, từ cuộc chiến này đến cuộc chiến khác, máu chảy thành sông, xương chất thành núi. Đấy là chính trị quốc ngoại. Về chính trị quốc nội, thì họ Hồ đã nhập cảng lý thuyết Mác Lê, chủ trương bạo động lịch sử, đấu tranh giai cấp, đưa đến cảnh con đấu bố, vợ tố chồng, bạn bè tìm cách sát hại nhau, xúi giục giai tầng này chống đối giai tầng kia, trong cảnh « Trí phú hào, đào tận gốc, trốc tận rễ» , làm chết hết giai tầng sĩ phu, trí thức ưu tú của dân Việt, chỉ còn những kẻ ngu độn, xu nịnh. Chính vì vậy, mà nước Việt ngày hôm nay trở thành một trong những nước nghèo đói nhất thế giới ; nền giáo dục trở thành thấp kém nhất trong 10 nước Đông Nam Á; đạo đức băng hoại, kỷ cương suy đồi, thầy cô tìm cách làm tiền học trò, cưỡng dâm những em phụ nữ. Đó là cảnh bình thường của xã hội Việt Nam hiện nay, được báo chí đăng tải hàng ngày.
Giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội để đưa dân nước đến chỗ độc lập và phú cường. Ít nhất là 4 cơ hội đã qua và ngày hôm nay lúc nào cơ hội này cũng sẵn có, với điều kiện là họ nghĩ đến dân, đến nước.
Chúng ta hãy cùng nhau xét vấn đề.
Giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam từ Hồ chí Minh đến Nông đức Mạnh ngày hôm nay đều ngu dốt và lầm lẫn
Ông Lê xuân Tá, cựu đảng viên cộng sản, cựu cán bộ cao cấp, đã từng là Phó Chủ nhiệm Ủy ban khoa học và kỹ thuật Trung ương đảng, đã từng nói :
"Sự ngu dốt và sự thấp hèn tự nó không đáng trách và không làm nên tội ác. Nhưng sự ngu dốt và sự thấp hèn mà được trao quyền lực và được cấy vào vi trùng ghen tỵ thì nó trở thành quỉ nhập tràng.
Và con quỉ này, nó ý thức rất rõ và mau lẹ rằng cái đe dọa quyền và lợi của nó chính là sự hiểu biết, trí thức, văn hóa và văn minh. Nên nó đã đánh những thứ này một cách tàn bạo, vô nhân đạo và không thương tiếc. Cách mạng Hồng vệ binh bên Tàu là thế. Nhân văn giai phẩm ở Việt Nam là vậy. Nhưng cũng chính vì nó là ngu dốt và thấp hèn, nên những thứ này đã trở nên những sỏi thận, sỏi mật, sơ gan, cổ chướng trong lục phủ ngũ tạng của chế độ cộng sản làm cho chế độ này không ai đánh mà tự chết. "
Ở đây chúng ta nói Hồ chí Minh ngu dốt và thấp hèn không phải là chúng ta so sánh họ Hồ với chúng ta, mà chúng ta so sánh với những người đồng cấp như cụ Phan bội Châu, tướng Tưởng giới Thạch. Chúng ta so sánh Nông đức Mạnh với những giới lãnh đạo trên thế giới hiện nay, ít nhất là những nước chung quanh, như Thái Lan, Nam Hàn, Singapour v.v…
Người ta có thể nói, hai người tiêu biểu cho sáng suốt của Đông phương, đã hiểu rõ sự nguy hiểm của chủ thuyết Mác-Lê và chế độ cộng sản là cụ Phan và ông Tướng họ Tưởng.
Vào những năm đầu của thập niên 20, sau khi do Bộ Tham Mưu Đức đưa từ Thụy Sĩ về Nga cướp chính quyền, Lénine đã thành lập ra Đệ Tam quốc tế Cộng sản, sau đó cho người đi thế giới chiêu dụ những nhà đấu tranh của những nước nhược tiểu, trong đó có cụ Phan bội Châu và Hồ chí Minh. Cụ Phan đã được người của Đệ Tam gặp gỡ ở Thượng Hải, đưa cho cụ Nội qui của tổ chức này. Cụ đã đọc qua bản dịch của những người bạn, cụ đã ý thức rằng nếu theo tổ chức này, thì có nghĩa là từ bỏ chủ quyền quốc gia và dân tộc, vì điều 16 và 17 của tổ chức nói rõ là bất cứ tổ chức và người nào theo Đệ Tam, thì phải tuyệt đối nghe lời, theo một kỷ luật sắt, như Lénine đã chủ trương từ lâu. Thêm vào đó, cụ còn ý thức rõ sự nguy hiểm của lý thuyết duy vật. Cụ nói : « Tôi chẳng duy vật, tôi chẳng duy tâm, tôi chỉ duy dân.»
Vào năm 1923, Tôn dật Tiên ký một hiệp ước thân thiện với Lénine. Họ Tôn đã gửi tướng Tưởng giới Thạch, tay em của mình, sang Liên Sô để học hỏi. Theo nguyên tắc, họ Tưởng phải ở bên đó lâu để học ; nhưng ông chỉ ở một thời gian rất ngắn rồi về. Người ta hỏi ông :
- «Tại sao tướng quân không ở bên đó lâu để học ?»
Ông trả lời :
- «Không có cái gì ở bên đó để tôi học.»
Rồi ông tiếp :
"Một con người không có xương sống, thì suốt đời chỉ nằm và bò. Xương sống của một xã hội là giai tầng trung lưu và trí thức. Cộng sản chủ trương tiêu diệt những giai tầng này, chẳng khác nào như đánh gãy xương sống của một xã hội. Xã hội cộng sản không thể đứng dậy, không thể tiến được. "

Ngẫm lời nói của cụ Phan và họ Tưởng, xét kinh nghiệm thực hiện chủ nghĩa cộng sản trong trong thế kỷ 20 vừa qua, chúng ta mới thấy 2 người có lý và sáng suốt.
Trong khi đó thì Hồ chí Minh, sống vất vưởng ở bên Pháp, cũng được người của Lénine chiêu dụ. Vì trình độ thấp kém, không suy nghĩ sâu xa, thêm vào đó cuộc sống lại khó khăn, họ Hồ đã lao đầu theo cộng sản. Được Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản rước sang Liên Sô đào tạo, rồi đưa về cướp chính quyền.
Quả như lời của ông Lê xuân Tá, «Ngu dốt và thấp hèn, nhưng được trao quyền lực « và « Đã được cấy vào vi trùng ghen tỵ « , đó là lý thuyết Mác Lê. Họ Hồ đã trở thành một con quỉ.
Hồ chí Minh quả thật ngu dốt, ngây thơ và mù quáng, đã sống ở bên Liên Sô, bên Trung cộng, mà không nhìn ra rằng hai nước này chỉ là đế quốc, đặt quyền lợi của họ lên trên hết, cộng sản chỉ là cái áo khoác ngoài để che dấu mộng đế quốc của mình. Thế mà họ Hồ và ngay cả những Lê Duẫn cùng những người cộng sản Việt Nam vẫn tin vào thế giới đại đồng cộng sản, kiểu « Bên đây biên giới là nhà. Bên kia biên giới cũng là anh em».
Giới lãnh đạo cộng sản ngày hôm nay cũng vậy, từ Đỗ Mười, anh thợ thiến heo, học chưa qua nổi lớp ba trường làng, Lê đức Anh, anh cai phu đồn điền, Nguyễn tiến Dũng, anh chăn trâu, chăn bò trở thành anh du kích, những con người này cũng chỉ là những người ngu dốt và thấp hèn, nhưng được trao quyền lực, được trao từ tay Hồ chí Minh và vẫn được cấy vào vi trùng ghen tị là lý thuyết Mác-Lê, vì hiến pháp hiện hành vẫn coi lý thuyết này là ánh sáng soi đường cho chế độ.. Họ cũng chỉ là những con quỉ.
Thật vậy, nước ta từ ngày chiến thuyền Pháp bắn vào cửa Đà nẵng năm 1847 tới nay, giới Lãnh đạo Việt Nam đã ngu dốt và lầm lẫn so với giới lãnh đạo các nước chung quanh, đặc biệt là Thái Lan và Nhật bản, thay vì nghe lời những người như Nguyễn trường Tộ, cải tổ và canh tân xứ sở, thì lại cho rằng đó là những lời nói nghịch ngôn, phản quốc, chẳng khác nào như giới lãnh đạo cộng sản ngày hôm nay ; trong khi chủ thuyết cộng sản đã lỗi thời, bị vứt bỏ ngay tại những nước là cái nôi của nó ; chế độ cộng sản đã hoàn toàn thất bại, không những không mang lại độc lập, tự do, dân chủ, phú cường cho dân ; mà ngược lại, chỉ mang tới lệ thuộc, độc đoán, độc tài, nghèo đói cho dân ; thế mà giới lãnh đạo cộng sản vẫn bám lấy lý thuyết, chế độ lỗi thời, cho tất cả những lời nói chân thật, yêu nước, như của Linh mục Nguyễn văn Lý, Hòa thượng Thích Quảng Độ, Luật sư Lê thị Công Nhân, Lê công Định, ông Trần huỳnh Duy Thức, Nguyễn tiến Trung, Lê thăng Long, nhà văn Trần khải Thanh Thủy, bà Phan Thanh Nghiên và nhiều nhà yêu nước khác như bác sỹ Nguyễn đan Quế, cụ Lê quang Liêm v.v… Cộng sản đều kết án họ là « Phản quốc « , « Âm mưu lật đổ chính quyền «.Đất nước chúng ta, từ năm 1847 tới nay, với những người lãnh đạo cuối thời nhà Nguyễn và chế độ cộng sản, đã lâm vào tình trạng « Ôi quê hương sao quá lầm than, để kẻ gian manh xét xử người hiền « , như một bài nhạc của nhạc sĩ Hồ Hải, được hát trên Pal Talk và mạng Internet toàn cầu.
Ở đây tôi không nói tới 2 chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam, vì 2 chế độ này cầm quyền không lâu so với chế độ cộng sản và cuối đời nhà Nguyễn. Hơn thế nữa hai chế độ này vẫn nhân bản, có tinh thần quốc gia dân tộc, nghĩ đến dân hơn cộng sản.
Bốn cơ hội đã bị bỏ lỡ để đưa dân nước đến chỗ độc lập và phú cường
1.- Cơ hội năm 1945
Đây là một cơ hội ngàn vàng để đưa quê hương và đất nước đến chỗ độc lập, hòa bình, tự do, dân chủ và phú cường. Ngay cả Bảo Đại cũng tuyên bố : « Trẫm thà làm công dân một nước độc lập còn hơn là vua một nước bị trị. » Mặc dầu trước đó, cộng sản đã cho người giết Phạm Quỳnh và Ngô đình Khôi để cảnh cáo tất cáo những người yêu nước mà khác chính kiến.
Hồ chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam chỉ nghĩ đến quyền lợi của đảng, bề ngoài thì hô hào đoàn kết, nhưng thực tế bên trong thì ngầm cho người giết chết tất cả những người yêu nước, mà không theo cộng sản. Chính vì vậy mà Bảo Đại, Nguyễn hải Thần, Nguyễn tường Tam và nhiều nhà ái quốc khác đã phải bỏ trốn sang Tàu. Rồi đất nước lầm than, đi từ cuộc chiến này tới cuộc chiến nọ, bị cảnh đấu tố ; lỗi chính là tại họ Hồ và Đảng Cộng sản đã mù quáng theo cộng sản, nhập cảng lý thuyết Mác Lê, áp đặt lên đầu dân nước.
2.- Cơ hội năm 1954
Đây là cơ hội thứ nhì để cộng sản Việt Nam nghĩ đến quyền lợi quốc gia dân tộc, giành lại quyền độc lập cho nước nhà. Thật vậy, Trung Cộng vừa mới ra khỏi chiến
tranh triều tiên năm 1953 ; về ngoại giao gần như tất cả nhờ vào Liên Sô.Lúc đó, ngoại trừ những nước cộng sản, chỉ có 2 nước công nhận Trung Cộng là Anh và Hòa Lan, chiếc ghế trong Liên Hiệp Quốc và Hội Đồng Bảo An vẫn do Đài Loan nắm giữ.
Thêm vào đó, Liên sô đang dưới quyền của Khrouschev, chủ trương hòa hõan với tư bản, muốn đóng cửa để sửa sai nội bộ. Chính ông này cũng không muốn cho cộng sản Việt gửi người xâm nhập vào miền Nam. Ông đã đề nghị 2 nước Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc năm 1956. Nhưng cộng sản Việt Nam nhất quyết gửi quân vào miền Nam. Lúc này, Cộng sản Việt Nam theo Tàu, lấy chiến lược « Nông thôn bao vây thành thị « của Mao làm kim chỉ nam, cho tới khi Khrouschev bị hạ bệ bởi Brejnev vào năm 1964. Cộng sản Việt Nam lại mù quáng bỏ Tàu theo Nga vì ông này hoàn toàn ủng hộ cộng sản Việt Nam đánh vào miền Nam. Vụ tấn công tết Mậu Thân 1968 mở đầu cho việc Cộng sản Việt Nam mù quáng tự nguyện làm con chốt cho chính sách đế quốc bành trướng của Liên Sô, dưới thời Brejnev.
3.- Cơ hội năm 1975
Sở dĩ Brejnev được Trung Ương Đảng Cộng sản Liên sô đưa lên, vì lúc đó trong đảng có 2 khuynh hướng : 1) Khuynh hướng sửa sai của Khrouschev, cho rằng đảng có nhiều sai lầm từ lý thuyết cho tới thực hành, chẳng hạn như chính sách tôn thờ lãnh tụ dưới thời Staline là không đúng ; chính sách cho rằng tư bản đang dãy chết, lý luận thiếu thực tế của K. Marx là không tưởng. Chính vì vậy mà ông chủ trương hòa hoãn với tư bản, đóng cửa lại để sửa sai nội bộ, ưu tiên hàng đầu. Brejnev chủ trương ngược lại, cho rằng những nước cộng sản không yếu và sai lầm như người ta nghĩ, mà ngược lại những nước cộng sản mạnh hơn tư bản. Bởi lẽ đó, nên hãy tạm gác lại những khó khăn nội bộ, đẩy mạnh công tác chinh phục thế giới, đánh gục những nước tư bản ; sau đó về sửa sai nội bộ cũng không muộn. Ông đã đưa ra một chiến lược gồm 2 kế sách :
1) Thượng sách là đẩy mạnh công tác chinh phục thế giới để ngọn cờ cộng sản sớm cắm trên mọi nơi ;
2) Trung sách, nếu không, thì chia đôi thế giới, lấy trục Sài gòn, Pnomph Penh, Bangkok, Kaboul, Moscou làm giới tuyến. Phía đông thuộc về cộng sản. Phía tây thuộc về tư bản. Chiến lược này, trên lý thuyết, và vào thời đó, khi mà Hoa Kỳ đang gặp khó khăn ở Việt Nam, những phong trào đòi độc lập, chống tư bản, phản chiến đang mạnh, thì nó cũng có đôi phần hấp dẫn. Chính vì vậy mà Khrouschev bị hạ bệ và Trung ương đảng đưa Brejnev lên vào năm 1964.
Chiến lược này Brejnev đã thực hiện trong suốt thời gian ông nắm quyền từ năm 1964 tới khi ông chết vào năm 1982. Nhưng đều thất bại, ngay cả về sau ông còn dùng đến hạ sách, đó là cho những cơ quan tình báo các nước đàn em ám sát những lãnh tụ thế giới tự do, như vụ ám sát tổng thống Reagan, ám sát Đức Giáo hòang Jean Paul 2.
Người ta có thể nói một cách đại lược rằng Brejnev đã thực hiện thượng sách từ năm 1964 tới năm 1969, đã dùng 3 con chốt cho chính sách này là Đông Đức ở Âu châu, Cu Ba ở Mỹ châu và Phi châu, Việt Nam ở Á châu, cùng sản xuất vũ khí một cách quá độ.Một năm Liên sô sản xuất riêng về xe tăng là 6 000 chiếc, bằng tổng số sản xuất toàn thế giới kể cả Hoa Kỳ.
Giới lãnh đạo cộng sản sản Việt Nam ngu độn và mù quáng đến chỗ theo Liên Sô rồi còn cất tiếng chửi Trung Cộng hết lời và đi đến chiến tranh ở biên giới với nước này.
Tuy nhiên thượng sách của Brejnev bị thất bại vì nhiều lý do, ở đây tôi chỉ xin nêu ra 2 lý do chính :
1) Mặc dầu đổ tiền bạc giúp các nước cộng sản đàn em, những đảng cộng sản trên thế giới, có thâu được một vài kết quả chiến thắng ; nhưng những chiến thắng này không phải là những chiến thắng quyết tử, làm chết đối phương, mà chỉ mang lại hao tổn tiền bạc cho xứ Liên Sô ; cộng thêm vào đó có cuộc chạy đua vũ trang không tiền khoáng hậu ; trong khi đó thì những khó khăn nội bộ mỗi ngày một chồng chất. Kinh tế trở nên lụn bại ;
2) Vụ tranh chấp Nga – Hoa. Hoa kỳ đã khai thác tối đa vụ tranh chấp này.
Thấy rằng không thể toàn thắng thế giới, ngọn cờ cộng sản không thể cắm ở mọi nơi, Brejnev quay ra thực hiện Trung sách ; nhưng cũng không xong vì vụ tranh chấp với Trung Cộng. Chính vì vậy vào năm 1969, có lúc Liên sô định dùng nguyên tử đánh Trung Cộng, yêu cầu Mỹ đứng trung lập ; nhưng Mỹ không chịu.
Ở Á châu không thể thực hiện trung sách, vì mắc hóc xương Trung Cộng, Brejnev quay sang Âu châu. Chính vì vậy mà có cuộc họp thượng đỉnh về an ninh Âu châu vào cuối tháng 7 đầu tháng 8 năm 1975 ở Helsinski, trong đó các nước Tây Âu, Hoa kỳ, Canada chấp nhận đòi hỏi của liên sô về ranh giới Âu châu, lấy sông Oder giữa Nga và Ba lan do Liên sô áp đặt vào cuối Đệ Nhị Thế chiến, làm ranh giới ; chấp nhận lý thuyết « Chủ quyền độc lập có giới hạn « của Brejnev, cho phép Liên sô can thiệp vào nội tình các nước đàn em ở Đông Âu ; nhưng ngược lại, Liên sô phải chấp nhận buôn bán qua lại với Tây phương và hứa tôn trọng những nguyên tắc căn bản của bản Tuyên ngốn quốc tế Nhân quyền, không được phá sóng những đài phát thanh Tây phương. Người ta có thể nói đây là lúc mà thế giới tự do phản công lại trên phương diện ý thức hệ, dùng nhân quyền như mũi tấn công chính, tố cáo những chế độ cộng sản không những không mang lại no ấm cho dân, mà ngay cả nhân quyền và tình hữu nghị giữa những quốc gia cộng sản.
Ở điểm này, chúng ta thấy Liên sô đã phải lui về thế thủ, mặc dầu vào năm 1978 xua quân sang xâm chiếm A phú hãn, xúi dục Cộng sản Việt Nam xâm chiếm Căm bốt để thực hiện trục Sai gòn – Pnomph penh – Bangkok – Kaboul – Mouscou. Tuy nhiên cả Việt Nam và Liên sô, một bên thì sa lầy bên Căm Bốt ; bên khác thì sa lầy bên A phú hãn. Thế mà giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam vẫn mù quáng không thấy sự khó khăn của Liên sô, vẫn cho rằng « Lý thuyết Mác Lê bách chiến, bách thắng », mình là « Đỉnh cao trí tuệ của loài người tiến bộ « , « đã từng đánh thắng giặc Mỹ « .
Nhưng trung sách cũng không thể thực hiện, Brejnev quay ra thực hiện hạ sách bằng cách cho ám sát những chính khách quan trọng của thế giới tự do, cũng không xong. Rồi Brejnev chết, trong khi đó, thì những khó khăn nội bộ chồng chất, đến nỗi ông phải than trước khi nhắm mắt :
« Xã hội chủ nghĩa gì mà 1/3 xe chạy ngoài đường là ăn cắp ét săng của công ; 1/3 bằng cấp là bằng cấp giả ; công chức đến sở làm việc là đến cho có mặt, sau đó đi coi hát hay làm việc riêng. »
4.- Cơ hội năm 1989
Brejnev chết năm 1982, Andrpov rồi Tchetnenko lên thay không được bao lâu cả 2 cũng chết, Gorbatchev lên vào cuối năm 1985.
Gia tài mà Brejnev, Andropov và Tchernenko để lại cho Gorbatchev quá tang thương, chẳng khác nào một căn nhà xiêu vẹo từ trên xuống dưới hay một chiếc xe quá cũ kỹ. Lúc đầu, Gorbatchev cũng định sửa từ từ, nhưng thấy không xong, rồi quyết định sửa toàn bộ với chính sách Tái cấu trúc và Trong sáng ( Pérestroïka et Glasnost) ; nhưng bị lâm vào hoàn cảnh, đó là đụng đến đâu thì sụp đổ đến đó, tháo hết mọi bộ phận cái xe rồi không ráp lại được nữa. Đại để, đế quốc Liên sô sụp đổ là vì vậy.
Những điều này Cộng sản Việt Nam hoàn toàn ngu dốt, mù quáng không nhìn thấy, hết mình tin tưởng vào Liên Sô, sau khi Liên Sô sụp đổ thì lại muối mặt lục đục kéo sang Thành Đô vào tháng 3/1990, với một phái đoàn hùng hậu gồm Tổng bí thư Nguyễn văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười, Cố vấn Phạm văn Đồng, van lạy Trung Cộng để được làm chư hầu, mặc dầu trước đó đã dùng mọi ngôn từ để chửi Trung Cộng. Trung cộng đã bỉ mặt bằng cách không tiếp ở Bắc Kinh, mà tiếp ở một thủ phủ nhỏ, không cho đi máy bay mà bắt phải đi đường bộ. Đặng tiểu Bình hứa sẽ gặp, nhưng sau đó không gặp và còn nói : « Cộng sản Việt Nam là phường ăn cháo, đái bát, tôi không thèm gặp những kẻ này. » [Xin xem thêm Nhật Ký của Thứ Trưởng Ngoại giao Cộng sản Trần quang Cơ trên internet]
Vào giữa thập niên 80 tới cuối thập niên này, Cộng sản Việt Nam có một cơ hội ngàn vàng để đưa đất nước đến độc lập và tự do, dân chủ. Thật vậy, vào lúc này ở bên Liên Sô dưới sự lãnh đạo của Gorbatchev, ở bên Trung Cộng, cho đến Biến cố Thiên an môn, tháng 5/1989, dưới sự cầm đầu của 2 người Tổng Bí thư có khuynh hướng cởi mở là Hồ diệu Bang và Triệu tử Dương.
Tuy nhiên Cộng sản Việt Nam vẫn mù quáng, ngu dốt không nhìn thấy cơ hội này. Phải chăng bản chất là nô lệ từ thời Hồ chí Minh, làm bồi cho tàu Pháp, rồi thần phục Đệ Tam Quốc tế Cộng sản để được nắm chính quyền. Bản tính nô lệ đó vẫn kéo dài cho tới giới lãnh đạo ngày hôm nay. Thêm vào đó Cộng sản Việt Nam ý thức rất rõ rằng nhờ vào ngoại bang để có chính quyền, thì ngày hôm để giữ chính quyền cũng phải nhờ vào ngoại bang ; vì đây là một chính quyền mất lòng dân, đi ngược lại quyền lợi của quốc gia dân tộc, đi trái chiều tiến bộ của văn minh nhân loại là đi đến tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền.
Tuy nhiên, hiện nay giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam lúc nào cũng có cơ hội đưa đất nước và dân tộc đến chỗ độc lập và phú cường ; với điều kiện là nghĩ tới dân tới nước, dân chủ hóa chế độ.
Luận điệu cho rằng « Trung Cộng là một nước to lớn, chúng ta phải thần phục nó. Đó là lẽ tự nhiên « . Luận điệu này sai, vì những nước nhỏ như Nam Dương, Thái lan, Đài loan, ngay cả Tân gia ba, họ đâu có phải thần phục Trung Cộng. Đây chỉ là luận điệu của giới lãnh đạo ngu dốt và hèn hạ cộng sản Việt Nam, được mớm bởi một số trí thức giá áo túi cơm, đi theo bạo quyền để được một chút canh thừa cơm cặn, vặn óc, bóp tim tìm ra những ngụy biện để giúp chính quyền.
Ngày nào mà đất nước Việt Nam còn bị cai trị bởi đảng Cộng sản Việt Nam, với giới lãnh đạo ngu dốt và lầm lẫn, thì ngày đó nhiều cơ hội tốt đẹp cho dân tộc còn bị bỏ lỡ, ngày đó đất nước còn không có độc lập, phồn thịnh và phú cường. Để có độc lập và phú cường, dân Việt phải can đảm đứng lên đấu tranh để giải thể chế độ này.
« Không phải luôn muốn là được ; nhưng nhiều khi không được vì không muốn. » Một câu châm ngôn đã nói như vậy.
Dân Việt hãy can đảm đứng lên để muốn có tự do, độc lập và phú cường, không những cho chính bản thân mình, mà cho cả con cháu và dân tộc.
Đảng cộng sản Việt Nam hãy sớm thức tỉnh, nhìn gương của các nước Liên Sô và Đông Âu, nhìn trào lưu tiến bộ của văn minh nhân loại là đi đến mô hình tổ chức xã hội dân chủ, tự do và kinh tế thị trường, hãy sớm trao trả những quyền tự do căn bản cho dân, đứng về phía người dân, đặt quyền lợi của quốc gia dân tộc lên trên hết, thay vì quyền lợi của đảng và của ngoại bang Trung Cộng.

No comments:

Post a Comment